Search
Thứ Hai 14 Tháng Mười 2024
  • :
  • :

HỎI ĐÁP VỀ BỆNH VẢY NẾN

1 Star2 Stars3 Stars4 Stars5 Stars (1 votes, average: 5,00 out of 5)
Loading...
Chia sẻ:

Bệnh vẩy nến là một bệnh da mãn tính (kéo dài) gây vảy và viêm, ảnh hưởng đến khoảng 100 triệu người trên toàn thế giới. Bệnh này xảy ra ở mọi lứa tuổi nhưng chủ yếu ảnh hưởng đến người lớn. Nó xuất hiện như nhau ở nam và nữ. Cùng trường cao đẳng Y dược Pasteur tìm hiểu về điều này nhé!

  1. Bệnh vẩy nến ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống như thế nào?

Theo Dược sĩ Trường cao đẳng Y Dược Pasteur cho biết: Đây là một bệnh không lây nhiễm ảnh hưởng đến mọi chủng tộc bất kể tuổi tác.

Ở dạng điển hình, bệnh vẩy nến dẫn đến các mảng da dày, đỏ (viêm) được bao phủ bởi các vảy bạc. Những mảng này, đôi khi được gọi là mảng, thường ngứa hoặc đau. Các mảng thường xuất hiện ở khuỷu tay, đầu gối, các bộ phận khác của chân, da đầu, lưng dưới, mặt, lòng bàn tay và lòng bàn chân. Nhưng chúng có thể xảy ra trên da ở bất cứ đâu trên cơ thể.

Những thay đổi ở móng tay, chẳng hạn như vết rỗ trên tấm móng và móng bị tách ra khỏi nền móng, thường thấy ở gần một nửa số bệnh nhân bị ảnh hưởng.

Các khớp cũng có thể bị ảnh hưởng, dẫn đến đau và sưng khớp.

 

Những người bị bệnh vẩy nến có thể cảm thấy khó chịu về thể chất. Ngứa và đau có thể cản trở các chức năng cơ bản, chẳng hạn như chăm sóc bản thân, đi lại và ngủ. Các mảng bám trên bàn tay và bàn chân có thể gây khó khăn khi làm một số công việc chân tay, chơi một số môn thể thao và chăm sóc các thành viên trong gia đình. Những người bị bệnh vẩy nến từ trung bình đến nặng cũng có thể cảm thấy tự ti về ngoại hình của mình.

  1. Có các loại bệnh vẩy nến nào?

Bệnh vẩy nến không giới hạn ở phát ban da có thể nhìn thấy. Có nhiều loại bệnh vẩy nến khác nhau và chúng như sau:

Bệnh vẩy nến mảng bám

Loại phổ biến nhất

Gây ra các mảng da khô ngứa

Bệnh vẩy nến móng tay

Ảnh hưởng đến móng tay, móng chân

Gây ra sự phát triển móng bất thường và đổi màu

Bệnh vảy nến thể giọt

Chủ yếu ảnh hưởng đến thanh niên và trẻ em

Kích hoạt bởi nhiễm trùng vi khuẩn

Ảnh hưởng đến nếp gấp da của háng, mông và vú

Gây ra mảng da bị viêm

Bệnh vẩy nến mụn mủ

Loại hiếm

Mủ đầy mụn nước

Bệnh vẩy nến Erythrodermic

Loại ít phổ biến nhất

Có thể bao phủ toàn bộ cơ thể với phát ban bong tróc

Ngắn hạn hoặc mãn tính

  1. Bệnh vẩy nến được chẩn đoán như thế nào?

Vì bệnh vẩy nến có thể giống với các bệnh ngoài da khác nên đôi khi các bác sĩ khó chẩn đoán bệnh này. Các bác sĩ có thể cần sử dụng kính hiển vi để kiểm tra một mẫu da nhỏ trước khi xác nhận chẩn đoán.

Trong nhiều trường hợp, có tiền sử gia đình mắc bệnh vẩy nến. Các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu một số lượng lớn các gia đình bị ảnh hưởng bởi bệnh vẩy nến đã xác định được các gen liên quan đến căn bệnh này.

Những người bị bệnh vẩy nến có thể nhận thấy những lúc da của họ xấu đi, dễ tổn thương da do trầy xước, bong tróc, cọ xát hoặc thậm chí là cháy nắng, được gọi là bùng phát. Nhiễm trùng, căng thẳng và thay đổi thời tiết có thể gây bùng phát. Ngoài ra, một số loại thuốc có thể gây bùng phát hoặc làm trầm trọng thêm bệnh. Ví dụ như, thuốc uống như steroid, thuốc chẹn beta, thuốc chống sốt rét, v.v.

  1. Bệnh vẩy nến được điều trị như thế nào?

Có những kế hoạch điều trị khác nhau có sẵn cho các cá nhân. Mục đích điều trị bệnh vẩy nến là làm chậm tốc độ phát triển của tế bào da, cũng như loại bỏ vảy trên bề mặt da. Các bác sĩ thường điều trị bệnh vẩy nến theo từng bước dựa trên mức độ nghiêm trọng của bệnh, kích thước của các khu vực liên quan, loại bệnh vẩy nến và vị trí của bệnh vẩy nến. Các tùy chọn có thể bao gồm:

Thuốc bôi ngoài da (điều trị tại chỗ)

Điều trị bằng ánh sáng (quang trị liệu)

Thuốc uống hoặc tiêm (liệu pháp toàn thân)

Theo thời gian, da bị ảnh hưởng có thể trở nên đề kháng với điều trị, đặc biệt là khi sử dụng corticosteroid để bôi da. Ngoài ra, một phương pháp điều trị có tác dụng tốt ở người này có thể có ít tác dụng ở người khác. Do đó, các bác sĩ thường sử dụng phương pháp thử và sai để tìm ra một phương án hiệu quả.

Thuốc bôi ngoài da (điều trị tại chỗ)

Phương pháp điều trị áp dụng trực tiếp lên da có thể cải thiện tình trạng này. Các bác sĩ nhận thấy rằng một số bệnh nhân phản ứng tốt với các dạng thuốc mỡ hoặc kem chứa corticosteroid, vitamin D3, retinoids, nhựa than đá hoặc anthralin. Dung dịch tắm và chất bôi trơn có thể làm dịu, nhưng chúng hiếm khi đủ mạnh để cải thiện tình trạng của da. Do đó, chúng thường được kết hợp với các biện pháp mạnh hơn.

Điều trị bằng ánh sáng (quang trị liệu)

Tia cực tím (UV) tự nhiên từ mặt trời và việc cung cấp ánh sáng tia cực tím nhân tạo có kiểm soát được sử dụng để điều trị bệnh vẩy nến. Điều quan trọng là bác sĩ quản lý liệu pháp ánh sáng. Dành quá nhiều thời gian dưới ánh nắng mặt trời hoặc giường tắm nắng có thể gây tổn thương da, tăng nguy cơ ung thư da và làm trầm trọng thêm các triệu chứng.

Thuốc uống hoặc tiêm (liệu pháp toàn thân)

Giảng viên Cao đẳng Dược TPHCM cho hay, Đối với các dạng bệnh vẩy nến nghiêm trọng hơn, đôi khi các bác sĩ kê toa các loại thuốc uống hoặc tiêm.

Cyclosporin. Dùng đường uống, cyclosporine hoạt động bằng cách ức chế hệ thống miễn dịch để làm chậm quá trình luân chuyển nhanh chóng của các tế bào da. Nó có thể giúp giảm nhanh các triệu chứng, nhưng sự cải thiện sẽ dừng lại khi ngừng điều trị. Cyclosporine có thể làm giảm chức năng thận hoặc gây ra huyết áp cao (tăng huyết áp). Do đó, sự giám sát của bác sĩ là rất quan trọng.

Methotrexat. Giống như cyclosporine, methotrexate ức chế hệ thống miễn dịch để làm chậm quá trình luân chuyển tế bào. Nó có thể được thực hiện bằng thuốc viên hoặc tiêm. Bệnh nhân dùng methotrexate phải được theo dõi chặt chẽ vì nó có thể gây tổn thương gan và giảm sản xuất tế bào hồng cầu vận chuyển oxy, bạch cầu chống nhiễm trùng và tiểu cầu tăng cường cục máu đông.

Retinoids. Retinoids đường uống là các hợp chất có đặc tính giống như vitamin A có thể được kê đơn cho các trường hợp bệnh vẩy nến nặng không đáp ứng với các liệu pháp khác. Vì những loại thuốc này có thể gây dị tật bẩm sinh, phụ nữ phải tham khảo ý kiến của nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe nếu họ dự định mang thai.

Sinh học. Sinh học được làm từ protein được sản xuất bởi các tế bào sống thay vì hóa chất. Chúng can thiệp vào các quá trình cụ thể của hệ thống miễn dịch, gây ra sự sản xuất quá mức của các tế bào da và viêm nhiễm. Những loại thuốc này được tiêm (đôi khi theo yêu cầu bởi bệnh nhân) cần bác sĩ của họ theo dõi cẩn thận các phương pháp điều trị này.

Thuốc ức chế PDE4. Dùng đường uống, chất ức chế phosphodiesterase 4 (PDE4) nhắm vào các phân tử bên trong tế bào miễn dịch để ngăn chặn sự thay đổi nhanh chóng của tế bào da và tình trạng viêm.

Liệu pháp kết hợp

Kết hợp các phương pháp điều trị tại chỗ, ánh sáng và toàn thân khác nhau thường cho phép sử dụng liều thấp hơn của từng loại và có thể mang lại những cải thiện lớn hơn.

Tổng hợp bởi: benhchuyenkhoa.edu.vn

Bệnh viện thẩm mỹ Gangwhoo Bệnh viện thẩm mỹ Gangwhoo Bệnh viện thẩm mỹ Gangwhoo Bệnh viện thẩm mỹ Gangwhoo Bác sĩ Phùng Mạnh Cường Bác sĩ Phùng Mạnh Cường